Bệnh đầu đen ở gà đột ngột ập đến, gà đột ngột suy nhược, vươn đầu dưới cánh, đứng ngay ngắn, phẳng phiu, nhăn nheo. Chán ăn, sốt cao, tiêu chảy, phân màu vàng và có bọt, đôi khi có màu vàng, xanh, vàng, trắng và lẫn máu Da đầu nhanh chóng chuyển sang màu xanh lục, sau đó là màu xanh đen. Cuối thời kỳ bệnh, thân nhiệt giảm xuống mức bình thường. Các triệu chứng tụ máu ở chân. Sau khi bị chấn thương chân - do vết thâm tím, đột qu or hoặc ngã - nó có thể hình thành máu tụ. Các triệu chứng của máu tụ ở chân bao gồm sự thay đổi màu da ở khu vực thương tích, đau, sưng tấy, hoặc sưng nhẹ, tăng nhiệt độ cơ thể. U mạch: U mạch chính là một loại ung thư lành tính của tứ chi. U mạch máu: U mạch máu là một dạng ung thư ác tính. Loại u này thường được tìm thấy ở động mạch phổi, tĩnh mạch chủ dưới, tĩnh mạch và các mạch ngoại vi khác. Điều đó ko sai, nhưng cái tư tưởng ăn sâu vào máu của những người chưa có tiền nó vậy. Em nói chuyện với mấy ng đó. Ko câu nào là có ý nghĩa cả, ví dụ: em hỏi thẳng " mày có định hướng sau này làm gì chưa, cứ làm thuê mãi thế à)". Đa phần họ ko trả lời hoặc Sinh ra trong nghèo khó, không chịu học hành, mở rộng hiểu biết hẳn nhiên cái nghèo sẽ ở mãi trong máu. Kể cả có nhận thức được phải vươn lên, nhiều người lại không kiềm chế được việc chi tiêu lãng phí đồng vốn, cái này, người có tiền cũng mắc phải nhưng dần dần họ sẽ nhận thức được để . U máu là gì? U máu là tình trạng tăng sinh mạch máu quá mức. Đây là một khối u lành tính, tồn tại trong suốt những năm đầu tiên và có thể thoái triển dần trong thời gian dài, hiếm khi thấy u máu ác tính. U máu có thể xuất hiện ở ngoài da hoặc ở các cơ quan bên trong cơ thể như gan, ruột, hoặc cơ quan hô hấp, cột sống và hệ thần kinh trung ương. U máu trên da trông giống như một vết bớt đỏ, có thể phẳng hoặc lồi ra trên bề mặt da. Vị trí thường gặp nhất là vùng đầu mặt, cổ, sau tai, ngực lưng.. U máu xuất phát từ các mao mạch nông trên da gọi là u máu mao mạch, thường không cần điều trị. U máu có nguồn gốc từ các mạch máu sâu dưới da gọi là u máu thể hang, cần được can thiệp nếu gây ra các biến chứng. U máu trên da phát triển ngay từ khi trẻ còn là bào thai trong tử cung của người mẹ. U máu trên gan là loại phổ biến của nhóm u máu bên trong cơ thể. Sự tăng sinh các mạch máu diễn ra bên trong hoặc trên bề mặt gan. Nhiều nghiên cứu cho rằng quá trình mang thai hoặc sử dụng thuốc tránh thai có liên quan đến sự hình thành u máu trên gan. Tùy thuộc vào vị trí và kích thước của khối u mà người bệnh có thể phải đối mặt với các vấn đề như nứt u, lở loét và chảy máu. U máu ở trẻ là một vấn đề thường gặp nhưng hiếm khi gây ra các biến chứng nghiêm trọng. Một đứa trẻ có thể có nhiều nốt u máu nhưng không phản ánh đến tình trạng sức khỏe của bé, phụ huynh không nên quá lo lắng về vấn đề này. U máu là kết quả của sự tăng sinh mạch máu. Nguyên nhân chính xác dẫn đến quá trình tăng sinh các mạch máu hiện vẫn chưa được hiểu rõ. U máu có thể xuất hiện ngay sau sinh, nhưng phổ biến nhất vẫn là trong khoảng thời gian vài tháng đầu đời. Biểu hiện lâm sàng là một vết đỏ phẳng ở bất kỳ vị trí nào trên cơ thể, hay gặp nhất ở vùng đầu mặt cổ. Thông thường một đứa trẻ chỉ có một u máu. Trong năm đầu tiên, vết đỏ phát triển nhanh chóng thành một vết sưng trông giống như cao su, xốp, nổi lên trên bề mặt da. Sau đó, khối u tăng trưởng chậm dần và biến mất. Nhiều khối u máu sẽ biến mất khi trẻ lên 5 tuổi, và đa phần sẽ không nhìn thấy u máu nữa khi trẻ lên 10 tuổi. Sau khi u thoái triển, da tại vị trí khối u có thể bị đổi màu hoặc nổi lên trên bề mặt da bình thường. U mạch máu là bệnh lý không lây truyền từ người bệnh sang người lành. U máu thường gặp ở những đứa trẻ có các đặc điểm sau Trẻ da trắng Trẻ sinh non Sinh ra từ một thai kỳ đa thai Nhẹ cân so với tuổi Không có biện pháp nào giúp phòng tránh được sự xuất hiện của u máu. Việc chẩn đoán u màu thường chỉ cần hỏi bệnh và thăm khám lâm sàng là đủ. Sinh thiết da có thể được thực hiện nếu còn nghi ngờ chẩn đoán sau khi đã hỏi bệnh và thăm khám lâm sàng. Một số xét nghiệm cận lâm sàng chuyên sâu được xem như là các chỉ điểm cho tình trạng thâm nhiễm và biệt hóa của khối u máu Yếu tố tăng trưởng nội mô mạch máu VEGF trong máu và nước tiểu. Yếu tố tăng trưởng beta nguyên bào sợi trong nước tiểu. Siêu âm và chụp cộng hưởng từ có vai trò trong việc Phân biệt khối u máu trên da với các tổn thương khác như u nang bạch huyết, hạch bạch huyết. Xác định vị trí u máu trong các cơ quan. Phân biệt khối u máu với các bất thường liên quan đến hệ mạch máu khác như dị dạng mạch. U máu là một bệnh lý không ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe của người bệnh. Tuy nhiên trong một số trường hợp, người bệnh cần được điều trị với các phương pháp khác nhau tùy theo đặc điểm của từng loại u máu. Các chỉ định điều trị với khối u máu được đưa ra trong các trường hợp Khối u thường xuyên chảy máu U máu xuất hiện ở những vị trí làm giảm tính thẩm mỹ, gây ảnh hưởng đến tâm lý của người bệnh. U lớn chèn ép lên hệ mạch máu và hệ tuần hoàn U máu phá vỡ lớp biểu bì xung quanh U lớn chèn ép vào đường thở, ảnh hưởng đến quá trình hô hấp U máu cản trở tầm nhìn hoặc chuyển động của mắt. Điều trị u máu ngoài da Các u máu nhỏ ở ngoài da thường không cần đến sự can thiệp của nhân viên y tế, một vài u máu có thể tự biến mất. Việc điều trị cần được chỉ định trong các trường hợp u gây ra biến chứng như lở loét gây máu, nứt nẻ, chảy máu. Các biện pháp điều trị thường được áp dụng, bao gồm thuốc hoặc phẫu thuật trong trường hợp bệnh nhân có các khối u máu lớn, ảnh hưởng đến thẩm mỹ hoặc xuất hiện ở những vị trí đặc biệt như xung quanh mắt, phẫu thuật sẽ được áp dụng đẻ loại trừ khối u. Ngoài ra u máu ngoài da có thể điều trị bằng tia laser tia laser có tác dụng giảm đỏ, giảm kích thước khối u và thúc đẩy nhanh quá trình liền vết thương sau khi u máu tự thoái triển. U máu ngoài da sau khi biến mất thường để lại một vết rạn da. Các loại kem dưỡng ẩm có thể giải quyết được vấn đề này. Điều trị u máu ở nội tạng Phẫu thuật loại bỏ khối u máu ác tính Phẫu thuật cắt đứt nguồn cung cấp máu cho khối u. Phẫu thuật cắt bỏ các cơ quan bị ảnh hưởng. Xem thêm Các dấu ấn khối u là gì? Bướu máu có nguy hiểm? Điều trị u mạch máu Máu là gì? Máu là một dịch lỏng màu đỏ chảy trong hệ thống tuần hoàn. Thể tích máu ở người trưởng thành là 5-6 lít ở nam giới và 4,5-5,5 lít ở nữ giới, chiếm trọng lượng 6-8% cơ thể. Máu gồm các tế bào máu như hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu và một dịch có màu vàng chanh là huyết tương. Máu được sinh ra từ đâu? Nguồn gốc của các tế bào máu là các tế bào gốc sinh máu vạn năng có trong tủy xương, đó là những tế bào có khả năng sinh sản trong suốt cuộc đời. Một phần những tế bào được giữ lại trong tủy xương để duy trì nguồn cung cấp tế bào gốc, phần lớn hơn sẽ biệt hóa để tạo ra các dòng khác nhau của các tế bào máu gọi là các tế bào gốc biệt hóa. Các tế bào gốc sẽ biệt hóa qua nhiều giai đoạn để trở thành các tế bào hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu trưởng thành. Cấu tạo các thành phần trong máu Hồng cầu Hồng cầu có hình đĩa lõm hai mặt, đường kính trung bình khoảng 7,5µm, chiều dày 1µm ở trung tâm và 2µm ở ngoại vi. Cấu trúc lõm này giúp hồng cầu di chuyển linh hoạt trong các mạch máu. Thành phần quan trọng nhất trong hồng cầu là Hemoglobin. Quá trình sản sinh hồng cầu chịu sự điều hòa của Erythropoietin, một hormone được sinh ra từ thận. Số lượng hồng cầu bình thường trong máu ngoại vi là 5,05±0,38 T/l x1012 tế bào/ lít ở nam giới và 4,66±0,36 T/lx1012 tế bào/ lít ở nữ giới. Hồng cầu sống được bao lâu thì chết? Bạch cầu Là những tế bào có chức năng chống lại các tác nhân lạ như vi khuẩn, vi rút,... đi vào cơ thể nhằm bảo vệ cơ thể. Người ta phân loại bạch cầu thành bạch cầu hạt và bạch cầu không hạt. Bạch cầu hạt lại được chia thành bạch cầu trung tính, bạch cầu ưa acid, bạch cầu ưa base. Bạch cầu không hạt thì gồm 2 loại là bạch cầu mono và bạch cầu lympho. Số lượng bạch cầu trong cơ thể là bao nhiêu? Tiểu cầu Là những mảnh tế bào không có nhân, hình đĩa, đường kính khoảng 2-4µm, có màng bao bọc. Tiểu cầu là một cấu trúc rất hoạt động và đóng vai trò quan trọng trong quá trình cầm máu. Số lượng tiểu cầu bình thường trong máu ngoại vi dao động từ 150-300 G/l, trong đó nam 263,0± 61 G/l, nữ 274,0± 63,0 G/l. Các thành phần của máu, lượng máu trong cơ thể người bình thường là bao nhiêu? Huyết tương Là phần dung dịch màu vàng, thành phần gồm nước, đạm, mỡ, đường, vitamin, muối khoáng, các men,... Chức năng của máu. Máu có nhiều chức năng quan trọng mang tính sống còn đối với cơ thể. Máu vận chuyển các phân tử các phân tử glucose, acid amin, acid béo, các chất điện giải và nước được hấp thu từ ống tiêu hóa sẽ được máu vận chuyển cung cấp cho các mô khác. Máu lấy oxy từ phổi mang đến các mô, đồng thời lấy carbon monocid, sản phẩm của hô hấp tế bào đưa đến phổi để thải ra ngoài. Máu vận chuyển hormone và các chất dẫn truyền từ nên sản xuất đến cơ quan đích. Máu vận chuyển nhiệt quá trình chuyển hóa trong cơ thể sản xuất ra một lượng nhiệt lớn, máu vận chuyển nhiệt từ các bộ phận sâu trong cơ thể đến da và đường hô hấp để khách tán nhiệt ra ngoài. Máu giúp duy trì sự ổn định của pH và áp lực thẩm thấu của dịch ngoại bào dịch ngoại bào trong cơ thể luôn được duy trì ổn địch trong khoảng từ đến 7,45 nhờ trong máu có các hệ thống đệm. Các hệ thống đệm này chuyển các acid, base mạnh thành các acid, base yếu hơn. Máu cũng vận chuyển các chất có tính acid và base mạnh đến các cơ quan bài tiết. Các protein của huyết tương do không qua được thành mao mạch, tạo ra một áp suất thẩm thấu gọi là áp suất keo. Áp suất keo ảnh hưởng lớn đến áp lực thẩm thấu của dịch ngoại bào do đóng vai trò quan trọng trong sự vận động của nước giữa máu và dịch kẽ. Máu có chức năng bảo vệ cơ thể do một số tế bào máu có khả năng thực bào, giúp tiêu hóa và khử độc các chất lạ, chất lạ và vi khuẩn. Một số tế bào máu có khả năng sinh kháng thể để trung hòa chất độc từ tác nhân lạ, trong khi một số tế bào khác và protein huyết tương có vai trò quan trọng trong quá trình cầm máu giúp bảo vệ cơ thể. Có bao nhiêu nhóm máu? Hai hệ thống nhóm máu phổ biến và quan trọng nhất là hệ thống nhóm máu ABO và hệ thống nhóm máu Rh. Hệ thống nhóm máu ABO Được tìm ra lần đầu tiên vào năm 1901 bởi Karl Landsteiner, ông phát hiện ra sự có mặt của các kháng nguyên A và B trên màng hồng cầu và các kháng thể tương ứng anti A và anti B trong huyết tương. Dựa vào sự có mặt hay vắng mặt của kháng nguyên A và B người ta phân ra 4 nhóm máu chính Nhóm O không có kháng nguyên A và B trên hồng cầu Nhóm B có kháng nguyên B trên hồng cầu Nhóm AB có cả kháng nguyên A và kháng nguyên B trên hồng cầu. Ở người Việt Nam, nhóm máu O chiếm ưu thể với khoảng 45% dân số, tiếp theo là nhóm máu B chiếm 28,3%, nhóm máu A chiếm 21,2% và nhóm máu AB chiếm 5,5%. Hệ thống nhóm máu Rh Được tìm ra vào năm 1940 bởi Lansteiner và các cộng sự. Hầu hết các kháng nguyên Rh được ký hiệu bằng các chữ C,D,E,c,d,e là kháng nguyên yếu, trừ kháng nguyên D. Người có kháng nguyên D trên hồng cầu được gọi là người có Rh dương tính Rh+, người không có kháng nguyên D trên hồng cầu được gọi là Rh âm tính Rh-. Kháng thể anti D bình thường không có trong huyết tương của cả người Rh+ và Rh-. Khi truyền máu Rh+ cho người Rh- thì người Rh- sẽ sản xuất ra kháng thể anti D, sự tạo thành kháng thể này xảy ra chậm và thường chỉ đạt nồng độ tối đa sau 2-4 tháng. Nếu những người Rh- này lần sau lại tiếp tục nhận máu Rh+ thì các kháng thể anti D có sẵn trong cơ thể họ sẽ làm ngưng kết hồng cầu, xảy ra hiện tượng truyền máu. Đây là một hiện tượng rất nguy hiểm, nguy cơ đe dọa tính mạng người bệnh. Ở người Việt Nam, tỉ lệ Rh+ là 99,92% do đó những tai biến do không hòa hợp của nhóm máu Rh là rất hiếm gặp. Các vấn đề thường gặp Một số rối loạn lâm sàng về máu có thể kể đến như bệnh thiếu máu, bệnh đa hồng cầu, bệnh Leukemia, bệnh giảm bạch cầu, Hemophilia, bệnh giảm tiểu cầu, hội chứng thiếu yếu tố đông máu do thiếu hụt vitamin K, chứng huyết khối, chứng đông máu rải rác trong huyết quản,… Bệnh thiếu máu là một bệnh gặp khá phổ biến. Thiếu máu được định nghĩa là sự giảm khả năng vận chuyển oxy máu do giảm số lượng hồng cầu hoặc giảm số lượng Hemoglobin trong hồng cầu hoặc giảm cả hai. Do khả năng vận chuyển oxy của máu giảm, người bệnh dễ bị mệt mỏi, thở nhanh, khó tập trung vào công việc, đặc biệt là công việc trí óc. Những nguyên nhân thiếu máu là do thiếu sắt, mất máu cấp do các bệnh như trĩ, rong kinh, chảy máu đường tiêu hóa,…, do suy tủy, do hội chứng nguyên hồng cầu khổng lồ thiếu máu ác tính,… Trong chế độ ăn hàng ngày, cần bổ sung các thức ăn giàu sắt, acid amin, vitamin B12, acid folic để hạn chế nguy cơ xảy ra thiếu máu. Xem thêm Cách phân loại nhóm máu Khi nào cần xác định nhóm máu? Làm thế nào để biết nhóm máu của mình? U mạch máu là một tình trạng bệnh lý thường gặp ở trẻ nhỏ bắt đầu từ vài tuần sau sanh, tuy gọi là u nhưng đây không phải là một tình trạng quá đáng lo ngại cho bé. Bệnh chỉ có thể gây những rối loạn nhỏ tuỳ thuộc vào vị trí của u. Cùng Docosan tìm hiểu về bệnh lý này để hiểu rõ hơn về con trẻ hay người thân của bạn nhé. Tóm tắt nội dung1 Tổng quan về u mạch Diễn tiến tự nhiên của u máu2 Triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng của u Yếu tố nguy cơ mắc u Chẩn đoán bệnh u máu3 Điều trị u máu Tổng quan về u mạch máu U mạch máu hay u máu là tình trạng tăng sinh quá mức của mạch máu. U mạch máu là loại u lành tính, thường xuất hiện trong vài tuần đầu sau sinh, một số ít bẩm sinh ngay khi trẻ sinh ra, u to dần trong những năm đầu tiên trước khi tự thoái triển. U mạch máu thường phát triển ở thời kỳ thiếu nhi 1-5 tuổi, nên thường được gọi là u máu thiếu nhi hay u máu ở trẻ, một vài trường hợp xuất hiện ở trẻ lớn tuổi hơn. Theo diễn tiến tự nhiên 40% u sẽ biến mất hoàn toàn, 60% còn lại có thể thoái hoá nhiều hoặc ít, phải can thiệp phẫu thuật. Trên tổng thể, 90% u mạch máu sẽ thoái triển tự nhiên. U máu thiếu nhi là một vấn đề thường gặp ở trẻ. Một trẻ nhiều u máu không hẳn có tình trạng sức khoẻ tệ hơn trẻ có một u máu hay trẻ bình thường, và u sẽ thoái triển dần khi trẻ lớn. U mạch máu có thể xuất hiện ngoài da hay bên trong cơ thể. Bên trong cơ thể u thường ở các cơ quan như như gan, ruột, phổi, cột sống hay não. U mạch máu có thể đơn độc hoặc đa u máu ngoài da. Diễn tiến tự nhiên của u máu Sự tăng sinh tế bào của u mạch máu diễn ra nhanh chóng ở trong năm đầu của trẻ, rồi co hồi chậm lại ở giai đoạn đầu ở tuổi thiếu nhi 1-5 tuổi sau đó thoái hoá và biến mất sau 5-8 tuổi. Sau khi u biến mất, da trở lại tình trạng bình thường hoặc để lại một vết sẹo nhẵn. Tuy nhiên trong trường hợp u máu quá lớn, có hiện tượng tiêu huỷ mô, kết hợp với tình trạng tiêu cầu thấp, nguy cơ xuất huyết cao, có thể đe doạ mạng sống. Triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng của u máu U mạch máu trên da có hình dạng giống một vết bớt đỏ, phẳng hoặc lồi ra trên bề mặt da. U có thể xuất hiện ở bất kỳ vị trí nào nhưng thường nhất là ở vùng đầu mặt, rồi đến cổ gáy, lưng, ngón tay. U thường là một khối mềm, nhẵn hoặc gồ ghề nhiều thuỳ, với kích thước thay đổi từ vài mm đến vài cm. Màu sắc thay đổi từ hồng đến đỏ tía, khi ép sẽ trắng bệch đi. U mạch máu không đau, trừ u cuộc mạch u glomus tuy nhiên u có thể bị loét hoặc nhiễm trùng tại chỗ gây chảy rất nhiều, cần phải có biện pháp cầm máu kịp thời nếu không sẽ tương đối nguy hiểm. U cũng có thể chảy máu tự nhiên hoặc sau va chạm. U phát triển nhanh hay chậm tuỳ thuốc vào vị trí, phát triển nhanh ở nơi dễ tiếp xúc và va chạm hoặc gần niêm mạc như ở môi, mắt, vùng cổ, tuyến nước bọt, tuyến dưới hàm. U mạch máu ở vùng tứ chi và ngực bụng sẽ phát triển chậm hơn. Tiến triển của u còn phụ thuộc một phần vào bệnh lý kết hợp khác của trẻ. U mạch máu không lây truyền từ người bệnh sang người lành, hiện nay không có biện pháp nào để phòng ngừa bệnh. Yếu tố nguy cơ mắc u máu U mạch máu thường gặp ở những đứa trẻ có các đặc điểm sau Trẻ da trắngTrẻ sinh nonSinh ra từ một thai kỳ đa thaiNhẹ cân so với tuổi thai. Chẩn đoán bệnh u máu Việc chẩn đoán u màu thường chỉ cần hỏi bệnh và thăm khám lâm sàng là đủ. Khám lâm sàng giúp xác định u thuộc loại nông, sâu hay hỗn hợp. Loại nông thường dễ nhầm với bớt son, là một dị dạng mao mạch. Loại sâu có thể nhầm vơi dị dạng bạch mạch, tĩnh mạch hoặc hỗn hợp. Trên phương diện hình ảnh học Siêu âm Doppler hoặc chụp DSA mạch máu cho phép xác định hoạt động của dòng máu trong u, giúp phát hiện “dò động tĩnh mạch trong u”, đánh giá tiến triển của u máu. Chụp động mạch giúp xác định mạch máu chính nuôi u và tương quan với các cấu trúc lân cận, giúp định hướng khi cần phẫu thuật. CT-scan và MRI dùng để đánh giá trường hợp u nằm trong cơ thể, đánh giá khả năng phẫu phương diện mô học Trong những trường hợp khó chẩn đoán, bác sĩ có chỉ định sinh thiết u để phân biệt với các dị dạng mạch máu không điển hình hoặc với bệnh lý mạch máu khác. Hầu hết khối u có kích thước nhỏ, theo dõi suốt thời kỳ phát triển nhanh và thời kỳ co hồi bởi hầu hết u se thoái triển và da sẽ trở lại bình thường. Với u loét chảy máu băng ép ít nhất 10 phút để cầm máu và dùng kháng sinh uống, hiếm khi phải khâu cầm máu. Nếu u chảy xối xả như u mạch máu trong xương, chẳng hạn u máu gò má chảy máu sau nhổ răng phải mổ cấp cứu để cầm máu kết hợp với phẫu thuật triệt để. Ngoài ra u máu ngoài da có thể điều trị bằng tia laser tia laser có tác dụng giảm đỏ, giảm kích thước khối u và thúc đẩy nhanh quá trình liền vết thương sau khi u tự thoái triển. Chỉ định phẫu thuật thường được đặt ra khi U lớn nhanh, cản trở chức năng sinh hoạt như thị lực, ăn uống, tiêu tiểu. U ở những vị trí dễ va chạm liên tục do tiếp xúc hay bị bội nhiễm vi trùng cũng thường diễn tiến nhanh, có thể phải cắt đi chèn ép ở mũi gây biến dạng máu có biến chứng loét hoặc chảy máu nặng, không đáp ứng điều trị corticoids và laser liệu u vẫn tồn tại đến giai đoạn trưởng thành, có nghĩa là u sẽ không thể tự thu hồi được cũng nên cân nhắc mổ cắt. Cảm ơn bạn đã tìm đọc bài viết “Bệnh u mạch máu triệu chứng và phương pháp điều trị?”. Hy vọng bài viết đã cung cấp những kiến thức cần thiết và bổ ích cho bạn về căn bệnh này. Nếu phát triển trẻ có những triệu chứng trên, hãy đưa trẻ đi khám ngay để được bác sĩ tư vấn và điều trị thích hợp nhất cho từng trường hợp. Bài viết được tham khảo từ bác sĩ và các nguồn tư liệu đáng tin cậy trong và ngoài nước. Tuy nhiên, Docosan Team khuyến khích bệnh nhân hãy tìm và đặt lịch hẹn với bác sĩ có chuyên môn để điều trị. Để được tư vấn trực tiếp, bạn đọc vui lòng liên hệ hotline 1900 638 082 hoặc CHAT để được hướng dẫn đặt hẹn. Nguồn tham khảo NIH Bệnh u máu là tình trạng phát sinh một khối dạng u do sự tăng sinh quá mức của mạch máu gây nên. Khối u có đặc điểm như một khối u thông thường nhưng chúng có thêm một đặc điểm đặc trưng là chứa đầy mạch máu và máu. Khác với các khối u phần mềm khác, thường to lên và phát triển theo thời gian, u máu thì đa phần lành tính và tự chất của khối u là sự tăng sinh của mạch máu, chính xác là sự tăng sinh của các tế bào nội môi gây nên. Vì là khối u máu nên nếu như khối u máu vỡ đương nhiên mạch máu sẽ bị tổn thương và máu chảy hữu trẻ sơ sinhBệnh u máu là bệnh thường xuất hiện ở trẻ sơ sinh. Có khoảng 30% số bệnh nhân là trẻ trong tháng đầu sau sinh. Còn lại đa phần xuất hiện ở giai đoạn 1 tuổi. Một phần nhỏ xuất hiện ở tuổi trưởng u máu có đặc tính là mang đầy đủ các tính chất của một khối u ngoại trừ một tính chất, đó là khối u rất lành tính và đa phần tự teo đi trong các giai đoạn về sau. Khác với các khối u phần mềm khác, thường to lên và phát triển theo thời gian. Đến một giai đoạn nhất định chúng có thể chuyển thành ác tính. Còn u máu đa phần lành tính và tự máu có ba dạng cơ bản là u mao mạch, u dạng hang và u hỗn hợp. Chúng có thể xuất hiện ở bất kỳ đâu trong cơ thể miễn là tại vị trí đó có nhiều mạch máu. Nhưng thường thì u máu xuất hiện ở da là chủ yếu. Chỉ một phần nhỏ xuất hiện trong nội thường, người ta thấy u máu xuất hiện ở mặt, đầu, cổ, mông, đùi. Và thường là ở trẻ em. Chỉ một số ít xuất hiện ở gan, hầu họng, tim, cột sống. Những dạng này chiếm tỷ lệ vô cùng ít và thường gặp ở người trưởng thành. Đa phần u máu nội tạng xuất hiện ở hiệu nhận biếtU máu là một bệnh thường gặp ở da nên dấu hiệu nhận biết rất đơn giản. Chúng có biểu hiện ở 3 cấp độ. Cấp độ thứ nhất là dạng nhẹ. Dấu hiệu là những vết thay đổi màu sắc mà thường là đỏ, đỏ tím hoặc phớt xanh. Ở giai đoạn này chúng ít khi tạo thành u, cục hay khối. Đa phần chúng bằng phẳng như một cái “bớt trẻ em”.Cấp độ thứ hai là dạng trung bình. Ở giai đoạn này, u máu phát triển thành một khối u thực sự. Nghĩa là chúng gồ lên, nổi lên hoặc đội da lên thành một khối có hình dạng, kích thước rõ ràng. Tất nhiên, chúng vẫn mang màu sắc như cũ. Đó là màu của máu trong khối độ thứ ba giống dạng trung bình nhưng biểu hiện kèm theo khi khối u vỡ ra hay biến chứng. Thường là sự chảy máu nếu như khối u ngoài da, vỡ ra, loét nếu như khối u ở sâu trong phần mềm. Ngoài ra là những dấu hiệu đặc thù cơ quan mà tại đó khối u máu to lên, chèn ép vào tạng và cơ quan chủ máu thường ít khi gây ra biến chứng. Vì chúng tự biến mất đi khi trưởng thành. Ít trường hợp tồn tại và phát triển to lên. Nhưng cũng có một số trường hợp không diễn ra như vậy. Khi đó chúng có thể gây ra biến chứng của u máu nói chung ít nguy hiểm và rất ít khi xảy ra. Thường thì người ta không đặt vấn đề biến chứng trong bệnh này. Trong một số trường hợp, xin lưu ý là rất hãn hữu, có thể gây nguy hiểm. Chẳng hạn như u máu ở hầu họng có thể gây ra khó thở khi chúng quá to, u máu ở tim có thể làm giảm lưu thông tuần hoàn qua tim do u máu chiếm chỗ, u máu trong cột sống có thể làm yếu xương, u máu ở mắt có thể làm suy yếu thị lực, u máu trong gan có thể làm tắc một vài vi quản những u máu ở ngoài da, không khó để phát hiện ra bệnh. Mặc dù thỉnh thoảng cũng hay bị chẩn đoán nhầm với những vết xước ngoài da hay những chấn thương phần mềm. Nhưng với u máu trong sâu nội tạng thì cần phải có những xét nghiệm chuyên biệt. Ba xét nghiệm hay được phối hợp thêm để chẩn đoán là siêu âm, chụp cắt lớp vi tính CT và chụp công hưởng từ MRI.U máu thường xuất hiện ở mặt và trị thế nào?Như trên đã nói, u máu đa phần lành tính và không cần điều trị đặc biệt, tự khắc chúng sẽ teo và biến mất. Nhưng cũng có những u máu không nhỏ đi mà tồn tại như một khối u thực sự. Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng tới tâm lý và thẩm mỹ của người bệnh. Điều trị lúc này thực sự hữu giai đoạn đầu, u máu sẽ nhỏ lại một cách đáng kể với các thuốc điều trị. Các thuốc có thể áp dụng là corticoid có dạng uống, dạng bôi và dạng tiêm trực tiếp vào khối u, hóa chất chống ung thư, thuốc chẹn việc dùng thuốc không có kết quả hoặc không thuyên giảm như kỳ vọng thì phẫu thuật được xem là một biện pháp triệt để. Có hai phương pháp cơ bản là phẫu thuật bằng lase và cắt bỏ. Áp dụng theo phương pháp nào là tùy vào chiến lược điều trị của từng người và tùy vào vị trí xuất hiện khối u máu. Thường thì lase ưu tiên sử dụng ở những trường hợp u máu ở nông, bề mặt và những vị trí thẩm mỹ nhạy cảm như mắt, môi, mũi, tai, mặt. Nói chung, các can thiệp trong những trường hợp này thường không quá phức tạp. Rất ít khi u máu nội tạng phải can thiệp điều trị bằng phẫu thuật. Bs. Nguyễn Huyền Trang Bài viết được tư vấn chuyên môn bởi Bác sĩ chuyên khoa I Trần Văn Sáng - Bác sĩ Da liễu - Khoa Khám bệnh & Nội khoa - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Đà Nẵng. Bác sĩ đã có 18 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực Da liễu. U máu là một khối u máu dưới da lành tính phổ biến nhất ở trẻ em có thể tìm thấy ở tất cả các vùng của cơ thể. Tỉ lệ bệnh xuất hiện ở trẻ là 59% khi mới sinh, 40% trong tháng đầu, 30% ở trẻ đẻ non dưới 1,8kg cân nặng. Vậy nguyên nhân xuất hiện u máu dưới da là gì? 1. Bệnh u máu là gì? U máu tên khoa học là hemangioma- he-man-jee-O-muh là một vết bớt màu đỏ tươi xuất hiện khi sinh hoặc trong tuần đầu tiên hoặc thứ hai của cuộc đời. Nó trông giống như một vết sưng cao su và được tạo thành từ các mạch máu thêm trên hemangioma có thể xảy ra bất cứ nơi nào trên cơ thể, nhưng phổ biến nhất xuất hiện trên mặt, da đầu, ngực hoặc lưng. Điều trị cho bệnh hemangioma của em bé hemangioma ở trẻ sơ sinh thường không cần thiết vì nó mất dần theo thời gian. Một đứa trẻ có tình trạng này trong giai đoạn trứng nước thường có rất ít dấu vết tăng trưởng ở tuổi thứ 10. Việc điều trị có thể được xem xét nếu khối u ác tính cản trở việc nhìn, thở hoặc các chức năng máu xuất hiện thường xuyên hơn ở những em bé là nữ, da trắng và sinh non. 2. Các đặc trưng của bệnh u máu Bệnh u máu được đặc trưng bởi sự tăng sinh tế bào nội mô và quá trình tự nhiên. Các giai đoạn của u máu có thể được chia thànhGiai đoạn tăng sinh nhanh 0-1 năm Thường diễn ra trong 3 tháng, nhưng có khi diễn ra trong 6 tháng với u máu nông, 8-10 tháng với u máu sâu. Trong giai đoạn này, 80% u máu tăng gấp đôi kích thước, trong đó khoảng 5% phát triển ồ ạt, có thể đe dọa tính mạng, ảnh hưởng chức năng và thẩm mỹ của trẻ;Giai đoạn ổn định 1-5 năm Sau giai đoạn tăng sinh, u máu dần dần ổn định cả kích thước và dấu hiệu lâm sàng, kéo dài đến tháng thứ 18-20;Giai đoạn thoái triển 5-10 năm Giai đoạn này thời gian đầu màu da nhạt dần sau đó u máu dưới da xẹp dần, nhưng chậm hơn. Sự thoái triển này xảy ra đến 70-80% các trường hợp sau 6 tuổi. Sự thoái triển của u máu dưới da thường chậm hơn u máu ba loại u máu, bao gồmU máu mao mạch hay u máu phẳng;U máu dạng hang;U máu hỗn đó u máu phẳng xuất hiện như một vết son hay một mảng màu rượu vang trên da do sự tăng sinh bất thường của hệ thống mao mạch dưới da. 3. Nguyên nhân gây u máu Nguyên nhân gây u máu có thể là từ phôi thai, do di dích của trung bì phôi thai Giả thuyết liên quan đến căn nguyên gây u máu bao gồmTừ phôi thai, do di tích của trung bì phôi thai;Nhiễm virus gây u nhú trên người, tiếng Anh còn gọi là Human Papuloma virus HPV gây mất kiểm soát điều hòa tăng sinh tế bào nội mạch của mạch máu;Do nội tiết tối Người ta thấy nồng độ cao của 17-Beta Estradiol ở trẻ u máu;Heparine do các dưỡng bào tiết ra gây kích thích tế bào sợi và tế bào nội mạch tăng ở các trẻ u máu. 4. Triệu chứng lâm sàng của u máu U máu có thể có mặt khi sinh, nhưng thường xuất hiện nhiều hơn trong vài tháng đầu đời. Biểu hiện bệnh u máu ở trẻ em bắt đầu như một dấu đỏ phẳng ở bất cứ đâu trên cơ thể, thường xuyên nhất là trên mặt, da đầu, ngực hoặc lưng. Thông thường một đứa trẻ chỉ có một dấu hiệu, một số trẻ có thể có nhiều năm đầu tiên của trẻ, vết đỏ phát triển nhanh chóng thành một vết sưng trông giống như cao su xốp dính ra khỏi da. U máu sau đó bước vào giai đoạn nghỉ ngơi và cuối cùng, nó bắt đầu dần biến khối u máu biến mất khi 5 tuổi và hầu hết sẽ biến mất hoàn toàn khi trẻ tuổi 10. Da có thể bị đổi màu một chút hoặc nổi lên sau khi hemangioma biến mất. 5. Bệnh u máu có nguy hiểm không ? Tác động tiêu cực của bệnh u máu đến con người còn đang được nghiên cứu kỹ lưỡng. Mặc dù không đe dọa đến tính mạng, nhưng u máu cũng gây nên những vấn đề nhất định đối với sức khi, một hemangioma có thể bị phá vỡ và phát triển một vết loét. Điều này có thể dẫn đến đau, chảy máu, sẹo hoặc nhiễm trùng. Tùy thuộc vào vị trí của hemangioma, nó có thể cản trở tầm nhìn, hơi thở, thính giác hoặc nguy hiểm đến tính mạng - nhưng điều này rất hiếm khi xảy máu có thể tăng sinh và phát triển không ngừng. Ở trẻ nhỏ, nếu tốc độ tăng sinh của khối u nhanh hơn so với sự phát triển của trẻ sơ sinh, thì các vấn đề về chức năng và thẩm mỹ như loét, tắc mũi, vấn đề về thị lực và tắc nghẽn đường thở rõ ràng sẽ xuất người trưởng thành, một số vị trí đặc biệt như vùng mí mắt, hốc mắt, mang tai gây biến chứng chèn ép thần kinh thị giác, mặt bị biến dạng. Nguy hiểm hơn có thể gây chảy máu ồ ạt nếu có sang chấn vùng dù u máu là lành tính, chúng cũng gây nên vấn đề mất thẩm mỹ rất nghiêm trọng, khiến người bệnh khó hòa đồng với xã hội, thậm chí là tự kỷ hay trầm cảm. 6. U máu khi nào cần đi khám bác sĩ? Bác sĩ sẽ theo dõi u máu ở trẻ trong quá trình kiểm tra định kỳ. Cha mẹ hãy liên lạc với bác sĩ nếu hemangioma chảy máu, hình thành vết loét hoặc bị nhiễm trùng. Bên cạnh đó trẻ sẽ cần đến sự chăm sóc y tế nếu tình trạng này cản trở tầm nhìn, hơi thở, thính giác hoặc nguy hiểm đến tính mạng. Bác sĩ sẽ theo dõi u máu ở trẻ trong quá trình kiểm tra định kỳ 7. Chẩn đoán u máu như thế nào? Chẩn đoán xác địnhChẩn đoán chủ yếu dựa vào sự tiến triển của 3 giai đoạn qua theo dõi, thăm khám lâm sàng. Điều quan trọng nhất là cần phải phân biệt thương tổn là u máu hay dị dạng mạch máu? U máu ở giai đoạn nào? Tăng sinh hay ổn định hay thoái triển? Một số phương pháp chẩn đoán xác định gồmSiêu âm có thể giúp chẩn đoán trong giai đoạn tăng sinh và các u máu lớn;Chụp cộng hưởng từ hay chụp cắt lớp có thể giúp ích đối với các trường hợp u máu có biến chứng đe dọa đến tính mạng trẻ;Chụp mạch nên được chỉ định khi cần nút mạch;Sinh thiết Thường không cần thiết vì hỏi tiền sử bệnh nhân và các dấu hiệu có trên lâm sàng sẽ biết u máu hay dị dạng Chẩn đoán phân biệtU máu nông với giãn mao mạch hay giai đoạn đầu của u máu nông, dị dạng mao mạch Cần phải theo dõi trong những tháng đầu sau sinh để phân biệt chẩn máu sâu với những u máu lành tính bẩm sinh Loại u máu này đã đạt tới sự tăng sinh cực điểm của tế bào nội mạch ngay từ khi mới sinh. Loại u máu này chia lần 2 loại u máu bẩm sinh thoái triển nhanh và u máu bẩm sinh không thoái triển. Các loại u máu này thường không cần can máu sâu lành tính mắc phải vớiU nguyên bào mạch;U mạch nội mô dạng Kaposi;Dị dạng tĩnh mạch;Dị dạng bạch mạch;Dị dạng động – tĩnh mạch;Loạn sản phôi mạch máu có thể không gây hại gì tới sức khỏe và sự phát triển của trẻ, nhưng trong một số trường hợp nó có thể gây cản trở tầm nhìn, thính giác và thậm chí nguy hiểm cho tính mạng của trẻ. Do vậy cha mẹ vẫn cần hết sức chú ý theo dõi u máu để kịp thời đưa trẻ đi khám bác sĩ nếu có bất thường. Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng. Nguồn tham khảo XEM THÊM Điều trị u mạch máu ở trẻ em Vết bớt trên cơ thể khi nào cần chú ý? Vết bớt sơ sinh có tự mất đi không? Dịch vụ từ Vinmec

u máu ở môi dưới